Trong những năm gần đây, năng suất và chất lượng cà phê xuất khẩu bị giảm sút. Ngoài yếu tố thời tiết, nguyên nhân chính bắt nguồn từ khâu chăm sóc, canh tác đến thu hái và chế biến sau thu hoạch.
Việt Nam là quốc gia xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 trên thế giới sau Brazil với sản lượng ước tính khoảng 27,3 triệu bao (60kg/bao) trong niên vụ 2016/2017, chiếm 38 – 40% sản lượng xuất khẩu của thế giới. Riêng các tỉnh Tây Nguyên hiện có diện tích trên 551.670 ha cà phê.
Thách thức cho cà phê Việt xuất khẩu
Trước hết là quy trình canh tác, chăm sóc cây cà phê vẫn được người dân áp dụng một cách thiếu khoa học. Chế độ tưới tiêu, cách thức và liều lượng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, kỹ thuật cắt cành và bón phân đều chưa “đúng chuẩn” dẫn đến sản lượng và chất lượng quả kém.
Đã vậy, một số doanh nghiệp sản xuất phân bón giả đánh vào tâm lý của người nông dân đang trong tình trạng thiếu tiền mà cây thì cần được chăm bón. Cụ thể trong 8 tháng đầu năm 2016, Thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phát hiện hơn 50 công ty có hành vi sản xuất, buôn bán hàng ngàn tấn phân bón giả, kém chất lượng gây thiệt hại nghiêm trọng cho người nông dân trồng cà phê. Mặc dù Chính phủ đã ban hành nghị định về “Lật lại trật tự cho ngành phân bón Việt Nam” nhưng “đâu cũng vào đấy”.
Ngoài những khó khăn trong kỹ thuật chăm sóc, tuổi cây cà phê cũng là nguyên nhân dẫn đến giảm năng suất trái. Diện tích cà phê già cỗi trên 20 năm tuổi hiện nay là trên 86.000 ha. Ngoài ra còn có trên 40.000 ha dưới 20 năm tuổi nhưng đã có dấu hiệu già cỗi, sinh trưởng chậm, năng suất và chất lượng thấp. Theo đó, từ 5 – 10 năm tới, cần phải thay thế trên 140.000 – 160.000 ha. Nếu không sớm tái canh thì sản lượng sẽ không đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
Cái khó của tái canh là đối với người trồng phải mất gần 2 năm để cải tạo đất, sau đó trồng lại phải mất thêm 3 năm nữa mới có thu hoạch. Đồng nghĩa với người dân mất khoảng 4 năm không có thu nhập, vốn vay lớn, lãi suất cao nên người trồng ngại tái canh. Vấn đề này cần sự hỗ trợ từ nhiều nguồn ngân hàng, doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với khu vực Tây Nguyên hiện nay, nhiều vườn cà phê đã bước vào giai đoạn cỗi, cần phải thay thế bằng cây mới. Việc chọn giống cà phê nào, qui trình ươm giống (trồng trong vườn ươm thời gian lâu để khi ra trồng đại trà chỉ vài năm có quả, giúp người nông dân giảm thời lượng quá trình chăm sóc cây từ lúc trồng đến lúc thu hoạch rất quan trọng). Mô hình này cần được chuẩn hóa và chuyển giao cho nông dân.
Đã đến lúc cần một giải pháp đồng bộ cho cà phê Việt xuất khẩu
Để cho ra được cà phê thóc xuất khẩu đạt chuẩn về kích thước, mùi vị và màu sắc, khâu thu hoạch và chế biến cũng góp phần quyết định. Việc ủ đống hoặc đóng bao làm tăng nhiệt độ cà phê lên đến 45,6 độ C, thúc đẩy quá trình phát sinh nấm mốc, chuyển hóa màu sắc của nhân, làm giảm chất lượng vị và mùi cũng bị thay đổi một cách đáng kể. Chưa kể đến, ủ như vậy khiến quả tươi cũng có những chuyển biến xấu, tỷ lệ quả chín nẫu lên đến 10,5%, 24,8% quả bị mốc.
Hạn chế được vấn đề trên, các chuyên gia đánh giá cao công nghệ chế biến tươi và tách nhớt bằng enzyme đang được chú ý bởi những lợi ích mà công nghệ này mang lại: cà phê thóc sạch nhớt từ 95- 100%, chất lượng cà phê nhân và hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn so với phương pháp lên men truyền thống. So với đánh nhớt cơ học, mô hình sử dụng enzyme tiết kiệm được 35% lượng nước, 40% điện năng và giảm được 17% hạt vỡ và tróc vỏ thóc. Công nghệ này làm giảm thiểu tối đa ảnh hưởng do các nguyên nhân kể trên đối với chất lượng hạt.
Vậy, vấn đề được đặt ra cho hàng bị trả về sẽ đi đâu về đâu? Đối với cà phê một phần sẽ trộn với cà phê mới sau đó xuất khẩu sang các thị trường khác với cơ chế kiểm soát lỏng lẻo hơn. Phần còn lại tiêu thụ trong nước, bán cho các doanh nghiệp sản xuất cà phê bột phân phối cho các nhà hàng, quán nước và người tiêu dùng trong nước sẽ là nạn nhân thay thế cho người tiêu dùng quốc tế. Không phải là đang “vạch áo cho người xem lưng” nhưng những điều đó nối tiếp nhau diễn ra và ngày một gia tăng.
Rõ ràng, những nỗ lực của riêng các viện nghiên cứu, cơ quan chức năng trong việc nâng cao năng suất và chất lượng cà phê Việt Nam là chưa đủ. Phải có sự góp sức của cả nông dân và các doanh nghiệp có liên quan. Tất cả những hạng mục trên đều phải rốt ráo xây dựng thành chính sách, mô hình giải pháp, quy trình khoa học và tuyên truyền sâu rộng tới từng hộ dân.
Nguồn: Tổng hợp